Hello lại là mình đây, sau đây hãy cùng mình tìm hiểu về kiến thức trong lĩnh vực tố tụng dân sự nhé!
Tòa án không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì không có luật áp dụng. (Điều 2 Điều 4)
Trên tinh thần này, “Luật Tố tụng dân sự” đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, coi đây là một trong những nội dung quan trọng của “Luật Tố tụng dân sự” để sửa đổi, bổ sung thủ tục tranh tụng. Nội dung chính của nguyên tắc này như sau:
a) Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng kể từ ngày thụ lý cho đến khi vụ án được giải quyết xong.
b) Nội dung vụ kiện như sau:
– Làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan, nhân sự tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, nhất là quyền và nghĩa vụ của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Xem thêm: Các nguyên tắc hoạt động của tố tụng dân sự
– Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ có quyền thu thập, chuyển giao tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự; theo quy định của Luật này thì phát biểu, đối đáp, phát biểu ý kiến, tranh luận. về việc đánh giá bằng chứng và áp dụng luật để bảo vệ tính hợp pháp của chính họ, khẳng định, cho phép hoặc bác bỏ các yêu cầu của người khác. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật Tố tụng dân sự.
– Tòa án có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người bào chữa theo quy định của Bộ luật dân sự. Theo quy định của Luật tố tụng dân sự, tòa án nhân dân thu thập tài liệu, chứng cứ khi xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của đương sự.
– Trong quá trình tố tụng, trừ trường hợp không công khai quy định tại Điều 109 Khoản 2 Luật Tố tụng dân sự, chứng cứ của vụ án phải được công khai.
Mỗi bên có quyền biết, ghi chép và sao chép các tài liệu, chứng cứ do các bên khác giao nộp hoặc do Tòa án thu thập (trừ những tài liệu, chứng cứ không được công khai). Các bên có nghĩa vụ gửi cho Tòa án bản sao đơn kiện và các tài liệu, chứng cứ đã nộp của các bên kia hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Để đảm bảo rằng tất cả các bằng chứng đều được công khai, tòa án phải họp cùng lúc với buổi hòa giải để xem xét việc chuyển giao, thu thập và tiết lộ bằng chứng, và đối với những trường hợp không thể hòa giải hoặc hòa giải, vẫn phải họp để xem xét việc chuyển giao, tiếp thu và công bố chứng cứ trước khi vụ án được đưa ra xét xử.
Một vài lưu ý nhỏ
– Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai quy định tại Điều 109 (2) của Luật này. Tòa án quản lý việc tranh tụng, và hội đồng xét xử chỉ hỏi những câu hỏi chưa rõ ràng và đưa ra các bản án, quyết định dựa trên kết quả tranh tụng.
Sở dĩ có thêm câu hỏi này là nhằm thể chế hóa tinh thần cải cách tư pháp, để Tòa án thực sự trở thành trụ cột của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền con người, đồng thời cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp. Tòa án nhân dân quan tâm là tòa án nhân dân với tư cách là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp nên các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm giải quyết mọi tranh chấp, khiếu kiện về dân sự tại tòa án, đồng thời bổ sung vấn đề này.
Đồng bộ với Bộ luật dân sự.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng dàn xếp tràn lan, không phải mọi vụ kiện, mọi khiếu kiện đều được tòa án thụ lý và giải quyết. Bộ luật hạn chế các vụ việc dân sự mà không có luật hiện hành nào được tòa án chấp nhận và giải thích. Quyết định là một vấn đề dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này. Luật dân sự nhưng khi vụ án dân sự đó xảy ra thì không có luật áp dụng khi cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu tòa án giải quyết.
————————————————
Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ:
?Ô?? ?? ??Ậ? ???? ??????
Địa chỉ: Số 3, ngõ 115 Nguyễn Khang, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Website:https://sjklaw.vn/
Email: sjk.law@hotmail.com
Hotline: 0962420486
Tags: giải quyết, tố tụng