Phân biệt tội trốn thuế với tội buôn lậu; từ việc phân biệt trên có thể nắm vững các cấu thành tội phạm của mỗi tội đó; có thể dễ dàng so sánh đối chiếu các dấu hiệu pháp lý cơ bản với nhau.
1. Tội trốn thuế được hiểu như thế nào:
Tội trốn thuế được quy định tại Điều 200 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015.
Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó được thực hiện bằng việc trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế; theo quy định của pháp luật cho Nhà nước. Hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ tuổi luật định; hoặc pháp nhân thương mại thực hiện với lỗi cố ý xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.
2. Tội buôn lậu được hiểu như thế nào:
Tội buôn lậu được quy định tại Điều 188 BLHS năm 2015.
“Đây được hiểu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới quốc gia; các loại hàng hóa hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa; tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, các loại vật phẩm là du vật, cổ vật; các loại hàng cấm nhằm mục đích kiếm lời”.
3. Phân biệt:
Tội buôn lậu và tội trốn thuế giống nhau ở một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng như: chủ thể, mặt chủ quan và khách thể loại của tội phạm. Cả hai tội đều do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định thực hiện. Họ đều có nghĩa vụ đóng thuế và đều xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước.
Tuy nhiên, căn cứ vào hành vi khách quan và khách thể của tội phạm thì trong cấu thành tội phạm của hai tội này có sự khác nhau nhất định.
Xem thêm: TỘI TRỐN THUẾ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015
Về mặt khách quan. Tội buôn lậu có hành vi khách quan là hành vi buôn bán trái pháp luật; được hiểu là không tuân thủ các quy định pháp luật về buôn bán hàng hóa qua biên giới; với các thủ đoạn đa dạng. Thủ đoạn như không thực hiện nghĩa vụ khai báo với các cơ quan chức năng; như chủng loại, số lượng đúng quy định; khai báo gian dối không phù hợp; từ đó nhằm đánh lừa các cơ quan chức năng.
Trường hợp người có hành vi khai báo gian dối với hải quan về chủng loại; số lượng hàng hóa buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa; và ngược lại. Từ đó, nếu nhằm mục đích trốn thuế với số tiền trốn thuế đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế theo quy định; thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu mà không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế. Bởi lẽ khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội này, không chỉ xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về thu, nộp thuế; mà còn xâm phạm việc quản lý ngoại thương, an ninh biên giới giữa các quốc gia.
Cụ thể ở trường hợp trên, BLHS đã quy định tại điểm e, g, h khoản 1 Điều 200 BLHS 2015; đã bổ sung các trường hợp trốn thuế xuất nhập khẩu bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế. Khi mà hành vi đó không phạm vào tội buôn lậu được quy định tại điều 188 BLHS.
————————————————-
Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ:
?Ô?? ?? ??Ậ? ???? ??????
Địa chỉ: Số 3, ngõ 115 Nguyễn Khang, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Website: https://sjklaw.vn/
Email: sjk.law@hotmail.com
Hotline: 0962420486